Hôn nhân không chỉ gắn kết về mặt tình cảm mà còn là sự gắn kết pháp lý về mặt tài sản, trong quá trình xây dựng gia đình không tránh khỏi việc vay vốn ngân hàng để làm ăn hoặc giải quyết vấn đề cá nhân. Việc vay vốn đơn giản khi người vay vốn là cá nhân ai vay người đấy trả. Nhưng khi vấn đề pháp lý về hôn nhân thì việc vốn ngân hàng phức tạp hơn đặc biệt là khi hai vợ chồng ly hôn và xảy ra các tranh chấp về tài sản sau ly hôn. Câu hỏi đặt ra sau khi ly hôn ai là người có trách nhiệm trả nợ ngân hàng?
1. Xác định nghĩa vụ tài sản và nợ chung
Trách nhiệm trả nợ trong hôn nhân gắn liền với mục đích vay nợ và đối tượng vay nợ. Cần xác định rõ nguồn gốc khoản nợ ngân hàng là nợ chung hay nợ riêng
a. Nợ chung
Là khoản nợ được vay trong thời kỳ hôn nhân, được sử dụng với mục đích chung và cả hai vợ chồng đều biết về khoản nợ này. ví dụ như vay nợ để:
- Mua nhà, mua xe
- Cho con tiền học
- Trang trải cuộc sống vợ chồng
- Đầu từ kinh doanh
Vợ và chồng đều phải chịu trách nhiệm về khoản nợ chung này sau khi ly hôn, vợ chồng có thể thỏa thuận hoặc nếu có tranh chấp không thỏa thuận được thì nhờ tới Tòa án phân xử
b. Nợ riêng
- Nợ riêng là khoản nợ có trước hôn nhân hoặc trong thời kỳ hôn nhân nhưng chỉ dùng cho mục đích cá nhân của vợ hoặc chồng ( như đầu tư riêng, học hành, mua sắm riêng). Người còn lại có thể biết hoặc không biết về khoản nợ riêng này
- Trường hợp này là nợ riêng của mỗi người, người đứng tên vay sẽ có trách nhiệm tự mình trả nợ, người còn lại không có nghĩa vụ trả nợ chung
c. Nợ chung nhưng chỉ một bên đứng tên vay
- Trường hợp này không hiếm khi xảy ra, và dẫn đến những tranh chấp kéo dài
- Cho dù một bên đứng tên vay nhưng mục đích số tiền vay được dùng chung cho nhu cầu của cả hai thì khi đó cần chứng minh được nợ dùng cho mục đích chung của cả hai vợ chồng. Thì cho dù chỉ một bên ký hợp đồng vay thì cả hai vẫn phải có những vụ trả nợ
2. Giải quyết nợ ngân hàng khi ly hôn
Giải quyết nợ ngân hàng khi ly hôn thường ưu tiên việc thỏa thuận giữa hai vợ chồng
Trong trường hợp vợ chồng không thoả thuận được về việc chia nợ ngân hàng chung thì Toà án sẽ giải quyết theo quy định pháp luật.
Về các khoản nợ chung, nợ riêng, căn cứ theo Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 có quy định vợ chồng có nghĩa vụ chung về tài sản đối với:
- Nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch được vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ về việc bồi thường thiệt hại mà vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
- Nghĩa vụ do vợ/chồng thực hiện nhằm mục đích đáp ứng cho nhu cầu thiết yếu của gia đình;
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu/sử dụng/định đoạt tài sản chung của vợ, chồng;
- Nghĩa vụ phát sinh khi sử dụng tài sản riêng vợ, chồng để duy trì/phát triển khối tài sản chung/tạo ra thu nhập chủ yếu cho gia đình;
- Nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại do con gây ra mà theo quy định thì cha mẹ có trách nhiệm phải bồi thường và các nghĩa vụ khác được pháp luật quy định.
Đồng thời, tại Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định vợ chồng có nghĩa vụ riêng về tài sản sau:
- Nghĩa vụ mà mỗi bên có trách nhiệm trước khi kết hôn;
- Nghĩa vụ của mỗi bên phát sinh từ việc chiếm hữu/sử dụng/định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng;
- Nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch do một bên xác lập và thực hiện mà không vì mục đích đáp ứng nhu cầu của gia đình;
- Nghĩa vụ phát sinh từ các hành vi vi phạm pháp luật của mỗi bên.
Mặt khác, căn cứ theo Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn sẽ có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thoả thuận khác về nghĩa vụ tài sản này.
3. Vợ chồng có được ly hôn khi chưa trả hết nợ chung
- Việc chưa trả hết nợ chung không làm hạn chế quyền ly hôn của vợ chồng. Đồng thời không phải là căn cứ để Tòa án làm cơ sở không giải quyết việc ly hôn
- Căn cứ Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về quyền yêu cầu ly hôn của vợ, chồng. Theo đó, vợ/chồng hoặc cả hai vợ chồng đều có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn.
- Bên cạnh đó, Điều luật này cũng chỉ hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của chồng khi vợ đang mang thai, sinh con/đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Điều luật này không đề cập đến việc yêu cầu vợ chồng phải trả hết nợ chung trước khi ly hôn.