Hòa giải theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự

Đánh giá bài viết

Trong xã hội hiện đại, khi các mối quan hệ dân sự ngày càng trở nên phức tạp, tranh chấp là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, không phải mọi tranh chấp đều cần đến sự phán quyết của tòa án. Hòa giải, với bản chất là sự thỏa thuận tự nguyện của các bên, đã và đang trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, được pháp luật Việt Nam ghi nhận và khuyến khích, đặc biệt là trong Bộ luật Tố tụng dân sự.

Hòa giải là gì?

Hòa giải trong tố tụng dân sự là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực dân sự. Trong đó, các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận với nhau để giải quyết mâu thuẫn, dưới sự hỗ trợ của một bên thứ ba trung lập.

Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải, không tiến hành hòa giải được hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.

Nguyên tắc tiến hành hòa giải

Theo khoản 2 Điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì việc hòa giải được tiến hành theo hai nguyên tắc sau đây:

  • Thứ nhất là tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình.
  • Thứ hai là nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Những vụ án dân sự không được hòa giải và những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được

1. Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được bao gồm:

Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.

Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng.

Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.

Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải.

2. Những vụ án dân sự không được hòa giải bao gồm:

Yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.

Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.

Thành phần của phiên hòa giải

Theo khoản 1 Điều 209 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì thành phần tham gia phiên họp gồm có:

– Thẩm phán chủ trì phiên họp.

– Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên họp.

– Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự.

– Đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động đối với vụ án lao động khi có yêu cầu của người lao động, trừ vụ án lao động đã có tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động, người lao động. Trường hợp đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động không tham gia hòa giải thì phải có ý kiến bằng văn bản.

– Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Nếu có).

– Người phiên dịch (Nếu có).

Hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự

Theo Điều 213 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì sau khi hòa giải:

– Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

– Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.

Xem thêm: Đơn khởi kiện sau khi nộp sẽ được xử lý như thế nào?

Bài viết liên quan
GỌI MIỄN PHÍ
chat-active-icon